
Đái tháo đường là một bệnh lý rối loạn chuyển hóa mạn tính, đặc trưng bởi lượng đường glucose trong máu tăng cao hơn mức bình thường, gây ra bởi những khiếm khuyết trong quá trình tiết insulin. Bệnh ĐTĐ gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm và là nguyên nhân hàng đầu gây ra các bệnh về tim mạch, suy thận, mù lòa và cắt cụt chi.
Theo báo cáo thống kê của Mạng lưới cộng tác gánh nặng bệnh tật toàn cầu (Global Burden of Disease Collaborative Network – GBD) năm 2019 trên 204 quốc gia và vùng lãnh thổ, Đái tháo đường (hay còn gọi là Tiểu đường) là một trong ba bệnh lý gây tử vong hàng đầu trên thế giới.
Số liệu từ Liên đoàn Đái tháo đường Thế giới (International Diabetes Federation – IDF) năm 2021 cũng cho thấy, số lượng người mắc Đái tháo đường (ĐTĐ) trên toàn thế giới ở độ tuổi 20 – 79 tuổi chiếm tỷ lệ 1/10, và trong 6 trẻ được sinh ra thì có 1 trẻ bị ảnh hưởng bởi bệnh lý này từ giai đoạn phát triển thai nhi.
Trong khi đó, theo kết quả điều tra của Bộ Y Tế Việt Nam năm 2021, hiện có khoảng gần 5 triệu người đang mắc bệnh lý này, trong đó có hơn 55% bệnh nhân đã có các biến chứng như biến chứng về tim mạch (34%), biến chứng về thận (24%), biến chứng về mắt và thần kinh (39,5%).
Năm 2021, Việt Nam có khoảng gần 5 triệu người đang mắc bệnh lý Đái tháo đường. (Ảnh: Freepik)
Cũng theo Bộ Y Tế Việt Nam, 70% trường hợp mắc ĐTĐ type 2 có phương án điều trị dự phòng và làm chậm xuất hiện bệnh bằng việc tuân thủ lối sống khoa học lành mạnh với chế độ dinh dưỡng và vận động hợp lý. Tuy nhiên, chỉ có 31,1% tỷ lệ người mắc ĐTĐ đã được chẩn đoán, trong đó, chỉ có 28,9% bệnh nhân ĐTĐ được quản lý tại các cơ sở y tế4. Vì vậy, việc quản lý, tầm soát và nâng cao nhận thức về bệnh lý ĐTĐ trong cộng đồng đang được nhà nước và các tổ chức y tế quan tâm và chú trọng trong tình hình số lượng bệnh nhân ĐTĐ ngày một gia tăng.
Vậy, Đái tháo đường là gì? Theo định nghĩa được Tổ chức Y tế Thế giới đưa ra năm 2002: “Đái tháo đường là một bệnh mạn tính gây ra do thiếu sản xuất insulin của tụy hoặc tác dụng insulin không hiệu quả do nguyên nhân mắc phải và/hoặc do di truyền với hậu quả tăng glucose máu. Tăng glucose máu gây tổn thương nhiều hệ thống trong cơ thể, đặc biệt mạch máu và thần kinh”.
Đái tháo đường gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời. (Ảnh: Freepik)
Hiện tại, chưa có phương pháp điều trị nào giúp bệnh nhân ĐTĐ khỏi hoàn toàn, tuy nhiên, việc phát hiện và chẩn đoán bệnh sớm có thể giúp người bệnh có những phương án để quản lý tình trạng bệnh và ngăn ngừa các biến chứng không mong muốn xảy ra.
Theo Hiệp hội Đái Tháo Đường Hoa Kỳ (American Diabetes Association – ADA), ĐTĐ được phân thành 4 loại như sau:
– ĐTĐ type 1: Cơ thể thiếu insulin tuyệt đối do tế bào beta tụy bị phá hủy.
– ĐTĐ type 2: Cơ thể mất dần khả năng tiết insulin do chức năng của tế bào beta tụy giảm dần, tiến triển trên nền tảng kháng insulin trước đó .
– ĐTĐ Thai kỳ: Tình trạng bệnh lý ĐTĐ được phát hiện và chẩn đoán trong tam cá nguyệt thứ hai hoặc thứ ba của thai kỳ, trước đó người mang bầu chưa từng mắc bất kỳ loại ĐTĐ nào.
– ĐTĐ do các nguyên nhân khác: Ví dụ, hội chứng ĐTĐ đơn gen (như ĐTĐ ở trẻ sơ sinh và ĐTĐ khởi phát ở người trẻ tuổi), các bệnh về tuyến tụy ngoại tiết (như xơ nang và viêm tụy), bệnh do tuyến yên, tuyến giáp, tuyến thượng thận và bệnh do thuốc hoặc hóa chất gây ra bệnh tiểu đường (chẳng hạn như sử dụng glucocorticoid, trong điều trị HIV/AIDS hoặc sau khi cấy ghép nội tạng).
Bệnh ĐTĐ có thể được chẩn đoán thông qua xét nghiệm máu khi bệnh nhân nhịn đói qua đêm ít nhất 8 giờ trước khi đo (có thể uống nước lọc, không uống nước ngọt). Theo Quyết định 5481/QĐ-BYT của Bộ Y Tế, dựa vào 1 trong 4 tiêu chí dưới đây, bệnh ĐTĐ có thể được xác định nếu trong cùng một mẫu xét nghiệm hoặc ở 2 thời điểm khác nhau có 2 trên 3 tiêu chí có kết quả trên ngưỡng chẩn đoán đối với tiêu chí 1, 2, 3; riêng tiêu chí 4 chỉ cần một lần xét nghiệm duy nhất.
Bên cạnh đó, Hiệp hội Đái Tháo Đường Hoa Kỳ ADA cũng khuyến nghị việc làm xét nghiệm tầm soát tiền ĐTĐ như một biện pháp phòng ngừa để kịp thời có những can thiệp lối sống trước khi thực sự chuyển biến thành ĐTĐ type 2. Tiền ĐTĐ là thuật ngữ được sử dụng cho những người có lượng đường trong máu không đáp ứng các tiêu chuẩn của bệnh tiểu đường nhưng lại có sự chuyển hóa Carbohydrate bất thường. ADA cũng đã phát triển một công cụ chấm điểm nguy cơ mắc các bệnh ĐTĐ với các yếu tố nguy cơ gồm tuổi tác, tiền sử gia đình, vấn đề huyết áp cao, mức độ hoạt động thể lực, chỉ số khối cơ thể đánh giá thừa cân béo phì, tiền sử ĐTĐ thai kỳ ở phụ nữ từng mang thai.
Tầm soát tiền ĐTĐ hỗ trợ phòng ngừa để kịp thời có những can thiệp lối sống trước khi chuyển biến thành ĐTĐ type 2 (Ảnh: Freepik)
Sau đây là một số nhóm có nguy cơ cao bị tiền ĐTĐ và ĐTĐ type 2:
– Người thừa cân béo phì (Chỉ số BMI ≥ 23 kg/m2)
– Có người thân đời thứ nhất (bố mẹ, anh chị em ruột, con đẻ) bị ĐTĐ
– Tiền sử xơ vữa động mạch
– Tăng huyết áp (Huyết áp ≥ 140/90 mmHg, hoặc đang điều trị THA)
– Người bị rối loạn chuyển hóa lipid (HDL cholesterol < 35 mg/dL (0,9mmol/L) và/hoặc triglyceride >250mg/dL (2,8mmol/L))
– Phụ nữ bị hội chứng buồng trứng đa nang
– Người ít hoạt động thể lực
– Phụ nữ từng được chẩn đoán ĐTĐ thai kỳ
– Những người từ 45 tuổi trở lên
– Các tình trạng lâm sàng khác liên quan đến kháng insulin
Khi thực hành xét nghiệm, những đối tượng có kết quả xét nghiệm rơi vào 1 trong 3 tiêu chí sau sẽ được chẩn đoán bị tiền ĐTĐ và cần được theo dõi thường xuyên, cũng như có chế độ sinh hoạt hợp lý hơn:
– Đường huyết lúc đói từ 100 mg/dL (5.6 mmol/L) đến 125 mg/dL (6.9 mmol/L)
– Đường huyết ở thời điểm sau 2 giờ làm nghiệm pháp dung nạp với 75g glucose bằng đường uống từ 140 mg/dL (7.8 mmol/L) đến 199 mg/dL (11.0 mmol/L)
– Chỉ số HbA1C từ 5.7–6.4% (39–47 mmol/mol)
Trong điều trị ĐTĐ, người bệnh cần được đánh giá tình trạng sức khỏe cơ bản, các bệnh lý đi kèm, thói quen sinh hoạt, điều kiện kinh tế, xã hội, tâm lý, tiên lượng sống, từ đó cá thể hóa mục tiêu điều trị. Dưới đây là một số biện pháp điều trị ĐTĐ tổng thể:
– Tư vấn thực hành tuân thủ theo điều trị, hướng dẫn kiểm soát cân nặng
– Sử dụng thuốc uống, thuốc tiêm hạ đường huyết
– Kiểm soát các yếu tố nguy cơ như tăng huyết áp, rối loạn lipid máu, máu khó đông
– Điều trị và kiểm soát các biến chứng do ĐTĐ gây ra
– Tư vấn can thiệp thay đổi lối sống bao gồm chế độ ăn, hoạt động thể lực và loại bỏ các thói quen có hại. Trong đó, chế độ ăn có vai trò quan trọng trong việc cải thiện sức khỏe người bệnh ĐTĐ. Nguyên nhân chính là do người bệnh ĐTĐ thường gặp phải tình trạng thiếu hụt vi chất dinh dưỡng do chế độ ăn uống kiêng khem hằng ngày. Điều này khiến cơ thể hay mệt mỏi, tê bì chân tay, đường huyết thay đổi thất thường, tăng nguy cơ gặp các biến chứng trong giai đoạn mắc bệnh. Lúc này, người bệnh có thể sử dụng những sản phẩm dinh dưỡng chuyên biệt dành cho người ĐTĐ như Glucare Gold nhằm hỗ kiểm soát đường huyết đồng thời tăng cường sức khỏe cho người bệnh.
Glucare Gold sở hữu hệ bột đường Glucare (Isomalt, Maltitol, Palatinose) hấp thu chậm cùng Crôm nhập khẩu từ Hoa Kỳ giúp cân bằng đường huyết cho người bệnh tiểu đường mỗi ngày. Đặc biệt, sản phẩm đã được kiểm chứng lâm sàng có chỉ số đường huyết thấp, an toàn cho sức khỏe người tiểu đường. Sản phẩm dinh dưỡng Glucare Gold chứa 38 dưỡng chất thiết yếu như Đạm chất lượng cao, Omega 3, Omega 6, Vitamin và khoáng chất hỗ trợ tăng cường sức khỏe mỗi ngày. Sản phẩm phù hợp cho người tiểu đường, và cả người có nguy cơ mắc tiểu đường. Với 2 ly sáng và tối, Glucare Gold giúp đường huyết cân bằng, tăng cường sức khỏe mỗi ngày cho người bệnh.
Thay đổi lối sống gồm chế độ ăn, hoạt động thể lực và loại bỏ các thói quen có hại là một trong những phương pháp cơ bản trong điều trị Đái tháo đường (Ảnh: Freepik)
Các phương pháp điều trị ĐTĐ luôn phải được thực hiện theo nguyên tắc: ưu tiên can thiệp thay đổi lối sống, hạn chế tối đa lượng thuốc dùng, thường xuyên kiểm tra tác dụng và tình hình tuân thủ thuốc cũ của người bệnh trước khi kê đơn mới, cung cấp phác đồ cá thể hóa cho người bệnh về khả năng tuân thủ điều trị của người bệnh, chi phí và tính sẵn có của phương pháp điều trị.
Như vậy, bệnh Đái tháo đường là căn bệnh có thể gặp ở mọi đối tượng, nguy hiểm và nguy cơ để lại nhiều biến chứng. Vì thế, cần chẩn đoán bệnh ở giai đoạn sớm để có phương pháp can thiệp điều trị kịp thời có thể kiểm soát bệnh ở mức tối ưu.
Tài liệu tham khảo:
|